2.1 Thị hiếu công chúng với âm nhạc dân gian-dân tộc cổ truyền.
Âm nhạc dân gian-dân tộc cổ truyền là gì?
Nước ta bao gồm 54 dân tộc, tộc người thuộc 3 dòng ngữ hệ Nam á, Nam Đảo (còn gọi là dòng Malayo-Polinesia) và dòng Hán- Tạng. Chính sự phong phú trong thành phần dân tộc và ngôn ngữ lại góp phần tạo nên sự đa dạng về âm nhạc; dân tộc nào, bộ tộc nào cũng có vốn dân ca, dân vũ rất phong phú của riêng mình. Bắt nguồn từ trong lao động, từ những phong tục, tập quán, từ tâm tư, tình cảm, tiếng nói của dân tộc và từ phong cảnh thiên nhiên của từng vùng, miền khác nhau cho nên dân ca đã mang những màu sắc địa phương, dân tộc khác nhau. Do được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, mài giũa, bổ sung, sửa đổi qua chiều dày của năm tháng, cho nên âm nhạc trong dân ca tinh tế, trau chuốt, lời ca đẹp, giàu chất thơ, giàu hình ảnh. Đặc điểm chung của dân ca là tính khuyết danh, không có tên tác giả, khác với âm nhạc chuyên nghiệp-bác học.
Được sự dẫn dắt về đường lối, chính sách của Đảng đối với văn hóa-nghệ thuật, cho đến nay chúng ta đã sưu tầm, khai thác được một kho tàng âm nhạc dân gian phong phú, và đang cố gắng phát huy, truyền bá vốn âm nhạc quý báu này cho công chúng Việt Nam, kể từ những năm 50 của thế kỷ trước cho đến nay. Tuy nhiên, với vốn âm nhạc dân gian cực kỳ phong phú, chẳng hạn, dân tộc Kinh có cò lả, trống quân, bồng mạc, sa mạc, hát đúm, hát ví, quan họ, hát xoan, hát ghẹo, ví dặm v.v. ở miền Bắc, những điệu hò, điệu lý của miền Trung, miền Nam, những điệu khắp, lượn, si, rang, bỉ, của các dân tộc thiểu số miền Bắc, những khan, A nhông…của các dân tộc thiểu số phía Nam, nhưng có thể nói công việc truyền bá âm nhạc dân gian trong công chúng còn làm được quá ít, không rộng khắp và không thường xuyên.
Kể từ khi Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, Thăng Long là đế đô, nhà vua đặt ra bộ Đồng Văn và bộ Nhã Nhạc để trông coi việc nhạc và hát, sinh hoạt âm nhạc trong cung đình rất phong phú, có “quốc nhạc’, “quân nhạc, với quy mô nhạc kỹ (nhạc công, ca kỹ) lên đến hàng trăm người, mở Ty Giáo phường để dạy nhạc và hát trong dân gian; Thăng Long lại là nơi hội tụ tinh hoa của mọi miền đất nước, cho nên có thể thấy ở đây nhiều hình thức sinh hoạt âm nhạc dân gian của các miền quê du nhập về, như hát xoan, hát quan họ?, hát phường vải, rồi Sa mạc, Bồng mạc, Cò lả, Trống quân, các điệu hò ở các bến dọc sông Hồng, như Đồng Nhân, Yên Phụ, Chèm, hát xẩm, và hát chầu văn, hát ca trù.
Đồng thời trên mảnh đất kinh kỳ, trải qua nhiều triều đại, chất bác học trong dòng nhạc cung đình lan tỏa sang dòng nhạc dân gian. ở đây nghệ thuật dân gian và nghệ thuật cung đình bổ sung cho nhau, tạo nên những tác phẩm tinh tế trang nhã, tạo ra những loại hình ca nhạc có nguồn gốc dân gian nhưng lại giàu tính bác học, trải chuốt về trí tuệ. Với truyền thống văn hiến lâu đời, lại là nơi tụ hội của những thi nhân tài hoa, nên mối quan hệ giữa thơ – văn và âm nhạc hòa quyện vào nhau trong hầu hết thể loại âm nhạc (ngâm thơ, hát ru, hát ví, cò lả, trống quân…). Bên cạnh nguồn âm nhạc của người các địa phương tụ tập cùng sinh sống trong một cộng đồng đem về, phần nhạc trong các câu ca dao ở đất kinh kỳ cũng đã tạo ra những luyến láy riêng trong cách gieo câu, nhả chữ, cắt nhịp. Cùng với tiếng nói “bản địa”, người Kẻ chợ đã tiếp thu có sáng tạo giọng nói của mọi miền đất nước, giữ lại những gì là tinh túy nhất. Thể thơ trong các loại hình ca hát cung đình và dân gian rất phong phú, khi đọc lên đã hay, mà khi hát lên lại có sức truyền cảm sâu sắc.
Ở Thăng Long – Hà nội, dân ca của nhiều miền trên đất nước, đặc biệt của đồng bằng Bắc bộ, đã có mặt trong đời sống âm nhạc, như ngâm thơ với nhạc điệu dựa trên thang 5 âm, nhưng người Hà Nội thường nhấn vào các âm chính và ngân dài khi gieo vần; sa mạc, bồng mạc, dành cho thể thơ song thất lục bát; hát ru, thường theo thể thơ lục bát biến thể, có đệm thêm các tiếng à ơi, i, ư. Phụ nữ Hà Nội còn thêm những tiếng đệm như “bồng à bồng, bàng à bang”; hát ví, vẫn dùng thể thơ lục bát, thường không có nhạc đệm và trong khi đối đáp thường kết bằng câu “Anh Cả anh Hai đó ư ơi”. Thí dụ Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh, Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh, Ai người gánh nước giếng Đình, Còn chăng hay đã trao tình cho ai; hát Cò lả, có thể coi như một ca khúc ngắn hoàn chỉnh khi có người lĩnh xướng và có tập thể phụ họa bằng một điệp khúc phổ biến cho tới ngày nay “tình tính tang, tang tính tình, anh chàng rằng, anh chàng ơi (hoặc cô mình rằng…), rằng có nhớ nhớ ta chăng; hát trống quân, một làn điệu khá phổ biến ở đồng bằng Bắc bộ, cũng được hát nhiều ở Thăng Long – Hà Nội vào những dịp tết Trung thu, có trống đất (thổ cổ) đệm theo nhịp “thình thùng thình” rất sôi động và cuốn hút thanh niên nam nữ lúc giao duyên. Đến nay vẫn còn truyền lại những câu hát đối đáp trong hát trống quân giữa các trai làng Nhật Tân với các cô gái Hồ Tây, như Công anh gánh đất trồng đào, bây giờ em để lọt vào tay ai?, nữ đáp lại Thương chàng lắm lắm chàng ơi, biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than, muốn than mà chẳng gặp chàng, kìa như đá đổ bên ngàn Hồ Tây. Và không phải chỉ ở các làng ngoại thành mới hát trống quân, mà theo như lời nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát kể lại trong hồi ký của ông, thì lúc còn nhỏ, nhà ở ngay phố cạnh Nhà thờ Lớn Hà Nội, cũng đầy ắp những tiếng hát trống quân được trai gái hàng phố hát đối đáp nhau ngay trên sân cỏ gần nhà vào những dịp Trung thu; hát chầu văn, một loại hình âm nhạc chuyên nghiệp bắt nguồn từ dân gian, được phổ biến nhiều trong các nghi thức thờ cúng ở các đền miếu, đặc biệt khi người ta “lên đồng”. Giai điệu của hát chầu văn thanh thoát, giàu sắc thái, trong đó tiết tấu giữ vai trò quan trọng. Thể thơ trong chầu văn thường là thể lục bát, lục bát biến thể, thất ngôn hoặc 4 chữ.
Bên cạnh những làn điệu dân ca quen thuộc với người Hà Nội xưa đã nêu trên, còn có loại hát Cửa đình thường được tổ chức vào các ngày lễ hội tại các đền chùa ở Hà Nội, có người hát, có nhạc công, kèm theo múa như múa Bỏ bộ, hát múa Bài bông, múa Tứ linh (long, ly, quy, phượng). Từ lối hát Cửa đình với sân khấu 3 mặt, khoảng từ thế kỷ 19 ca trù đã được phát triển thành lối hát thính phòng với phần nhạc được nâng cao đến trình độ tinh vi nhưng phần múa lại bị tước bỏ, và trở thành một lối chơi tao nhã của các tao nhân mặc khách đất Thăng Long, gọi là Ca trù. Ca trù là trường hợp điển hình của hiện tượng bác học hóa một thể loại ca nhạc có nguồn gốc dân gian. Không ở một loại hình ca hát dân tộc nào lại tạo được mối quan hệ kinh điển hữu cơ giữa người sáng tác (nhà thơ am hiểu âm luật), người diễn (hát và đệm đàn) và người nghe. Cho dù có vị tổ của Ca trù không phải người Thăng Long, nhưng môi trường văn hóa nghệ thuật Thăng Long chính là tác nhân đem đến cho Ca trù một số phận đặc biệt hơn các thể loại hát Cửa đình khác cùng thời với nó, và Thăng Long vẫn có thể xem Ca trù ngày nay như một thành quả nghệ thuật của chính mình. Tác giả thơ trong ca trù phần lớn là những nhà thơ nổi tiếng của đất Hà thành, am hiểu âm luật như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Thượng Hiền…
Thể loại âm nhạc cổ truyền bác học – nhạc cung đình – như trên đã nói, cũng xuất xứ từ Thăng Long, với những thời cực thịnh dưới các triều Lý, Trần, Lê, và luôn thu hút những ảnh hưởng qua lại của âm nhạc dân gian và âm nhạc cung đình, từ đó tạo ra những bước phát triển cho cả hai lĩnh vực âm nhạc này. Thí dụ như dòng ca nhạc cung đình thời Lý một mặt vẫn bám chắc rễ và giữ mối liên hệ khăng khít với nguồn nhạc dân gian truyền thống, mặt khác tiếp thu thêm những yếu tố âm nhạc Champa và Trung Hoa. Sự yêu thích nghệ thuật Champa của các vua thời Lý có ảnh hưởng quyết định tới việc tiếp nhận những ảnh hưởng sâu đậm của âm nhạc Champa trong nền nhạc Đại Việt, mà trước hết là trong âm nhạc cung đình, hoặc trong nhiều làn điệu dân ca, bài hát tín ngưỡng khác, như làn điệu dân tộc Chăm trong hát chầu văn, được gọi là làn điệu hát Giàn.
Truyền thống âm nhạc dân gian cũng như cổ truyền-bác học của Thăng Long Hà Nội phong phú như thế, nhưng trải qua những năm dài dưới ách thống trị của thực dân Pháp cùng với âm mưu đồng hóa của chúng, rồi những năm tháng dài chiến đấu chống xâm lược, âm nhạc dân gian của Hà Nội gần như mai một, thậm chí dẫn đến quan niệm của một số người cho rằng “làm gì có âm nhạc dân gian của riêng Hà Nội”, thì cho đến nay có thể nói công việc truyền bá âm nhạc dân gian trong công chúng Hà Nội còn làm được quá ít, không rộng khắp và không thường xuyên.
Chính vì thế cách nhìn nhận của công chúng về âm nhạc dân gian Việt Nam nói chung, với âm nhạc dân gian Hà Nội nói riêng, còn khá tản mạn. Nhưng do ý thức tự hào dân tộc trong nhân dân được nâng cao qua những năm tháng giữ nước và dựng nước, nhân dân ta đã ý thức được rằng sở dĩ có thể chiến đấu và chiến thăng những kẻ thù xâm lược hung hãn nhất, có thể bảo tồn được nền văn hóa dân tộc qua nhiều lần bị kẻ thù xâm lược âm mưu đồng hóa, chính là nhờ tinh thần tự chủ, tự cường, tự tôn dân tộc, cho nên nhân dân ta cũng như nhân dân Hà Nội nói riêng ngày nay, khác với những thập niên đầu thế kỷ trước, không rơi vào sự khinh thị, coi rẻ âm nhạc dân gian-dân tộc, coi là quê mùa, lạc hậu, để mà sùng bái âm nhạc phương Tây, một hiện tượng đã từng có ở một số người thời đó. Dẫu sao, muốn xác định mức độ yêu thích nhiều hay ít thì cũng sẽ phải xem xét căn cứ vào sự phân hóa về thị hiếu thẩm mỹ của lứa tuổi, của thói quen thưởng thức, của tác động gia đình-xã hội, nếu không được sự khuyến khích, truyền bá, hướng dẫn của các phương tiện thông tin đại chúng, của những người quản lý văn hóa, của công luận.
Nhưng có thể khẳng định rằng không một tầng lớp công chúng nào trong thành phố Hà Nội lại thờ ơ với âm nhạc dân gian-dân tộc cổ truyền và quay lưng lại với lĩnh vực âm nhạc này nếu âm nhạc dângian-dân tộc cổ truyền được truyền bá một cách có chất lượng. Dẫn chứng cụ thể nhất là sự hưởng ứng của công chúng đối với tháng liên hoan âm nhạc dân gian của các dân tộc, các vùng miền mà Đài Truyền hình VN đã tổ chức, đã gâyđược sự chú ý, hưởng ứng của công luận.
Còn các phiếu điều tra xã hội học có thể cung cấp những con số cụ thể hơn về số lượng công chúng Hà Nội thưởng thức và không thưởng thức âm nhạc dân gian-dân tộc cổ truyền.
2.2. Thị hiếu công chúng với dòng ca khúc cách mạng trước 1975.
Giới thuyết về dòng ca khúc cách mạng.
Dòng ca khúc cách mạng có nguồn gốc sâu xa từ thời kỳ trước khi thànhlập Đảng Cộng sản Việt nam, từ những ngày hoạt động cách mạng đầu tiên của đồng chí Nguyễn ái Quốc và những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản VN, nhưng có thể lấy năm 1925, khi đồng chí Nguyễn ái Quốc dịch lần đầu tiên bài Quốc tế ca (thơ của Eugène Potier, nhạc của Degeyter) ra tiếng Việt bằng văn vần, đăng trên 2 tờ báo cách mạng bí mật – tờ Thanh niên và tờ Công nông, là ngày ra đời của ca khúc cách mạng, vì nhữg bài văn vần này đã được cán bộ và quần chúng cách mạng trong nước phổ vào các giai điệu dân gian để hát. Năm 1929 một số thanh niên cách mạng VN theo học Trường Đại học Phương Đông do Quốc tế Cộng sản mở tại Maxcowva đã dịch bài Quốc tế ca ra tiếng Việt để có thể hát theo đúng giai điệu của chính bài hát đó. Cạnh đó, có thể nói dòng ca khúc cách mạng trước khi hình thành hình thái đích thực, tức là dưới dạng các ca khúc được sáng tác mới, nó đã tồn tại (và tiếp tục tồn tại sau đó) ở các hình thái mang tính chất quá độ như : sáng tác hoặc phỏng dịch lời ca mới theo các giai điệu của những ca khúc cách mạng nước ngoài; sáng tác lời ca mới để hát theo các làn điệu dân ca hoặc các điệu hát trong âm nhạc truyền thống dân tộc (ca kịch, ca nhạc tài tử, thính phòng…), và những bài thơ dưới dạng “bài ca” trong thơ ca cách mạng. Còn loại bài ca cách mạng được sáng tác mới đã ra đời trong cao trào cách mạng những năm 30-31 của thế kỷ trước, với các ca khúc Cùng nhau đi hồng binh, Tam bình, của các ông Đinh Nhu, Trần Văn úc,và sau này với Phất cờ Nam tiến, Tiến quân ca, Diệt phát xít, Du kích ca của các ông Hoàng Văn Thái,Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Đỗ Nhuận, đã phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ sau ngày CM tháng 8 thành công, và để trở thành một dòng ca khúc cơ bản trong sáng tác âm nhạc mới Việt Nam. Từ ngữ ca khúc cách mạng cần được hiểu theo nghĩa rộng, bởi lẽ không chỉ những bài hát nói đến cách mạng như bài 19 tháng Tám của ông Xuân Oanh nói trực tiếp về ngày Tổng khởi nghĩa mới là ca khúc cách mạng, hoặc chỉ những bài ca chiến đấu như Hành quân xa, Trên đồi Hin Lam, Chiến thắng Phủ Thông, Hò kéo pháo v.v. mới là ca khúc cách mạng, mà những bài Làng tôi, Quê em, Quê hương anh bộ đội, Câu hò bên bờ Hiền Lương, Xa khơi, Tình ca, Những ánh sao đêm v.v. cũng là những ca khúc cách mạng, mang tính cách mạng trong nội dung âm nhạc và lời ca, cổ vũ con người sống theo lý tưởng mới mà Đảng đã đem lại cho nhân dân. Ca khúc trữ tình, lứa đôi mà đẹp, cổ vũ con người sống tốt đẹp, có tính nhân văn, tính xã hội v.v. cũng đều là những ca khúc trong dòng ca khúc cách mạng.(tham khảo thêm tư liệu).
Sự nhìn nhận của công chúng với dòng ca khúc cách mạng, mà cụ thể nhất với những ca khúc nổi tiếng trong thời Kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hoặc một số ca khúc về các đề tài Tổ quốc, quê hương, về tình yêu lứa đôi nhưng trong đó vẫn thấy hiện lên bóng dáng của quê hương, đất nước, của thời cuộc…, mà công chúng thường quen gọi là ca khúc đỏ, thì có thể nói sự nhìn nhận này không đồng nhất trong mọi lứa tuổi, hoàn cảnh giáo dục, môi trường sinh sống, nhưng về cơ bản, không có tầng lớp người Hà Nội lại quay lưng lại với ca khúc cách mạng. Những bài hát cũ, nhưng đẹp, xúc động chân thành, có bối cảnh thời gian gắn với một sự kiện, một địa phương nào đó, nhất là với Hà Nội, lại có giai điệu đậm màu sắc dân gian, và được nhắc lại nhân một sự kiện nổi bật nào đó, thì vẫn được tất cả công chúng Hà Nội, không phân biệt già trẻ gái trai, hưởng ứng và yêu thích. Điều này có thể thấy rõ qua các hội diễn ca nhạc quần chúng nhân ngày kỷ niệm này, khác, công chúng Hà Nội vẫn hồ hởi hát, với một xúc động chân thành, những bài ca cách mạng, cho dù đó là những bài hát cũ, đã quá quen thuộc. Tâm hồn của họ vẫn say sưa, tự hào khi hát lại những bài hát của một thời oanh liệt của đất nước, của Hà Nội.
Đương nhiên lớp công chúng trung niên, có tuổi hoặc cao tuổi, vẫn nhiệt thành với ca khúc cách mạng (ca khúc cách mạng hiểu theo nghĩa rộng như đã nói ở trên) hơn so với lớp trẻ, vì thực ra lớp trẻ không có những ký ức thật rõ rệt với những sự kiện đã qua lâu năm, thậm chí khi họ còn chưa sinh ra trên đời này, đồng thời sức hấp dẫn của nhạc pop-rock với tiết tấu sôi động, đa dạng, với lời ca đầy chất đời thường, là những điều họ thấy, cảm nhận hàng ngày, vẫn là loại âm nhạc được họ yêu thích hơn.
Cụ thể hơn vẫn nên dựa vào kết quả điều tra xã hội học.
2.3. Thị hiếu công chúng với dòng nhạc trẻ Việt Nam.
Giới thuyết về cái gọi là dòng nhạc trẻ:
Dòng nhạc trẻ là tên gọi lái đi của nhạc pop-rock, cũng như gọi là nhạc đỏ, nhạc xanh, không mang tính khoa học, không phổ biến trong lý luận, lý thuyết của âm nhạc thế giới. Có thể tên gọi này xuất phát từ một số người đặt ra, rồi được đem dùng phổ biến, nhưng khi bàn về lý thuyết âm nhạc, vẫn phải gọi đó là dòng nhạc theo phong cách pop-rock.
Pop-music là nhạc bình dân, dân dã xuất xứ từ Mỹ, Anh trong những năm 50 của thế kỷ 20, có cội nguồn sâu xa từ nhạc jazz, nhạc country, nhạc nhẹ Âu-Mỹ của những năm đầu thế kỷ 20. (tham khảo thêm tư liệu). Loại nhạc này thâm nhập trước hết vào miền Nam nước ta từ trước ngày giải phóng, thống nhất đất nước, lắng đi một thời gian lại rộ lên theo trào lưu hát ca khúc chính trị ở nước tavào cuối những năm 70, đầu 80 tk trước. Hát ca khúc chính trị, thực chất là hát những bài hát có nội dung phản chiến, chống phân biệt chủng tộc, đấu tranh vì hòa bình của những lực lượng tiến bộ của một số nước Âu-Mỹ, trong đó có những nước XHCN (cũ), theo phong cách pop-rock, là phong cách âm nhạc thời đó đang rất thịnh hành trên thế giới, đặc biệt là ở Âu-Mỹ. Qua trào lưu ca khúc chính trị, nhạc pop-rock đã vào nước ta, được lớp trẻ yêu thích vì tính chất quần chúng, dễ làm, dễ hát, dễ được thanh niên mến mộ vì có tiết tấu sôi động, khác với những ca khúc thời chống Pháp, chống Mỹ, khi đó đang lùi vào dĩ vãng, vì không được các cơ quan thông tấn đại chúng, đài báo nhắc nhở đến, do có sự giao động, hoang mang trước sức cuốn hút mạnh mẽ của loại ca nhạc pop-rock, không có sự chỉ đạo, mà buông trôi theo xu thế của thời đại. Đã có lúc người ta phải cho rằng có những “cơn sốt nhạc nhẹ”, hầu như tràn ngập cả sinh hoạt âm nhạc trong cả nước, làm lu mờ những lĩnh vực âm nhạc khác như âm nhạc thính phòng-giao hưởng, âm nhạc dân gian- cổ truyền bác học, trong đó có những loại hình âm nhạc sân khấu như tuồng, chèo, cải lương.
Sau một thời gian giao động về phương hướng, hướng đi của âm nhạc đã được chấn chỉnh lại, cùng lúc với thời kỳ đổi mới của đất nước, 3 lĩnh vực âm nhạc, hoặc 3 dòng âm nhạc dân gian-dân tộc cổ truyền, chuyên nghiệp-bác học mới, và nhạc nhẹ (chủ yếu là nhạc pop-rock) đã dần được cân bằng hóa, đồng thời lĩnh vực nhạc nhẹ hiện đại cũng được uốn nắn theo hướng dân tộc-hiện đại, xuất hiện một số gương mặt sáng tác có bản lĩnh trong lĩnh vực này. Do sự ham chuộng của lớp trẻ đối với nhạc pop-rock, khiến giới nhạc quan tâm đúng mức hơn đến sự phát triển, thấy rằng cần nắm lấy, tìm hiểu những cái mới trong tiết tấu, hòa thanh, cấu trúc của loại hình âm nhạc bình dân này, do đó đã dần xuất hiện những ca khúc theo phong cách pop-rock có chất lượng, góp phần làm cho tươi mới hơn ca khúc Việt Nam, được công chúng tán thưởng.
2.4. Nhạc nhẹ thế giới.
Người Việt Nam, nhất là người Hà Nội, không lạ lẫm gì với nhạc nhẹ thế giới. Những thập niên đầu thế kỷ 20, nhạc nhẹ Âu-Mỹ đã tràn vào Việt Nam qua phim ảnh, trong đó có những phim nhạc nhẹ với các tài tử, ca sĩ nổi tiếng như Tino Rossi, Maurice Chevalier v.v. đãđược công chúng Hà Nội rất ham chuộng. Nhiều ca khúc theo phong cách nhạc nhẹ từ phim ảnh, đĩa hát đã được dịch ra tiếng Việt, hoặc làm lời Việt, hát khắp Hà Nội thời đó. Nhạc nhẹ(nhạc khiêu vũ) cũng tràn đầy trong các quán bar-dancing của Hà Nội. Thậm chí vì sự ham chuộng ấy đã đẻ ra phong trào “hát lời ta điệu Tây”. Cho nên có thể nói những loại tiết nhịp giờ đây dùng trong nhạc pop-rock như valse, tango, rumba, blue v.v. người Việt Nam, nhất là người Hà Nội có tuổi và cao tuổi, vẫn được yêu thích và quen thuộc. Những loại nhịp ấy nằm ngay trong các bài hát thuộc dòng nhạc lãng mạn thời trước cách mạng Tháng Tám và cả trong kháng chiến chống Pháp, như Đêm đông, Biệt ly, Con thuyền không bến, Thiên thai v.v. (tango), Suối mơ, Quay tơ, Quê em, Làng tôi v.v. (valse). Nhạc nhẹ bẵng đi một thời gian không có mặt trong sinh hoạt âm nhạc của những người dân Hà Nội (trong kháng chiến chống Pháp chỉ có trong Hà Nội tạm chiếm) do hoàn cảnh chiến tranh (không kể đến âm nhạc trong các vùng tạm chiếm thời chống Mỹ) khoảng 30 năm, nhưng khi nó xuất hiện lại vào cuối những năm 70 thế kỷ trước cho đến nay, công chúng Hà Nội vẫn yêu thích (thí dụ như sự ham thích của công chúng với những chương trình Ký ức thời gian, với những ca khúc của Đoàn Chuẩn, Văn Phụng, Ngọc Bích, Canh Thân v.v. ). Đương nhiên nhạc nhẹ thế giới hiện nay (chủ yếu theo phong cách pop-rock) có hàng trăm loại tiết nhịp, nhưng hình thức cấu trúc, phong cách diễn xuất (trừ những phong cách quá xa lạ với người Việt Nam), hòa thanh v.v., người Hà Nội thuộc mọi lứa tuổi đều có thể tiếp nhận, không quá xa lạ.
Nhưng ở đây chỉ bàn đến khả năng tiếp nhận, thích ứng của công chúng Hà Nội nói chung, còn sự yêu thích, thị hiếu thì lại phải căn cứ vào sự phân loại công chúng theo lứa tuổi, thị hiếu, môi trường sinh sống v.v.
Nhưng nói chung, để cho nhạc nhẹ có thể phát triển ngày càng phù hợp với công chúng Việt Nam nói chung và công chúng Hà Nội nói riêng, có thể cần chú ý: – Loại pop-rock nhẹ (soft-rock, ballad-rock, country rock…) có giai điệu đẹp, không quá ồn ào, nói chung người Hà Nội mọi lứa tuổi, có thể nghe được. Những bài hát ít giai điệu, nặng về tiết tấu, nói chung không được ưa thích, trừ một số trẻ, ưa lạ, mới, cũng có khi muốn tỏ ra mình theo kịp trào lưu, số này không nhiều. Người ta thường kêu về những loại ca nhạc nhẹ mà nghe xong quên ngay, không đọng lại được gì trong tâm trí. – Lời ca cần trải chuốt, giàu hình ảnh, đừng sô bồ, bỗ bã, đừng quá “đời thường” trong câu văn, ý văn, không một chút nâng cao. – Phong cách diễn xuất đừng quá nhố nhăng, kệch cỡm, thiếu thẩm mỹ; đã vừa hát vừa nhảy, thì phải nhảy đẹp, đúng điệu. – Trang phục có thể lạ, nhưng cũng không thể lố lăng, nghịch mắt.
Tóm lại, nhạc nhẹ như hiện nay, trừ một số quá lố, thiếu tính chuyên nghiệp, tự sáng tác, tự biểu diễn một cách tầm thường, nhàm chán, còn nói chung vẫn có công chúng của một số lứa tuổi, không chỉ lớp “choai choai” chưa được giáo dục, truyền bá về thẩm mỹ.
Vũ Tự Lân
(Bài viết giảng dạy đại học tại chức)